Được nghe Đức Phật dạy pháp là một nhân duyên hi hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hạnh phúc trong đời. Những lời chúng ta nghe ở đây hay được thuyết pháp từ những người kém trí tuệ và đạo đức cho dù có lặp lại chính xác từng lời từng chữ từ kim khẩu của Đức Thế Tôn vẫn không có đủ hấp lực, mạnh lực và công lực sư tự hưởng để giác ngộ nơi cho người nghe. Tuy nhiên, khi đọc, nghe được những lời và ngôn ngữ của Đức Thế Tôn dù qua bất cứ một phương tiện nào cũng như là những hạt nhân giác ngộ được cấy vào trong ý thức của chúng ta chỉ nhân duyên chín “muốn” để đóm hoa kết quả Phật tính. Qua kinh nghiệm riêng tư, một lần dừng lại ở đây đương đọc tiếp nữa hay nếu vẫn còn bản tính hiếu kỳ “chấp đọc” tiếp thì những triết lý Phật đà này nó sẽ thấm nhuần vào tâm thức của quý vị không dễ dàng gột rửa vì khi mà trí tuệ đã mở mang rồi thì khó mà trở lại vô minh.
Tìm Ánh Sáng Của Trí Tuệ
Nếu không muốn đánh mất bóng tối vô minh thì đừng tìm đến gần ánh sáng quang minh của trí tuệ. Nếu không muốn “diệt” tham sâu si thì đừng đi tìm vô ngã. Nếu không muốn an tâm kiến tính thì đừng đi tìm giác ngộ giải, thoát luân hồi khổ đau. Không muốn biết nhân sinh quan, và vũ trụ quan thì đừng học hỏi kiến thức từ khoa học, và khai mở trí tuệ từ Phật Pháp.
Nếu không muốn biết Không thì đừng đi tìm Có. Nếu không muốn biết bất nhị thì đừng tìm hiểu nhị nguyên. Nếu không muốn vô thường thì đừng đi tìm hữu thường. Nếu không muốn tri kiến Phật thì đừng tu học Phật. Còn nếu vẫn cố chấp tìm hiểu thì sẽ bị qua bờ bên kia lúc nào không hay biết. Mà khi đã qua bờ bên kia rồi thì không thể trở lại bờ bên kia vì không có bờ bên kia để trở lại.
Lời Dạy Của Đức Phật Cho Bádhiya
Một trong những tiêu biểu tuyệt vời là bài kinh trong Tiểu Bộ Kinh, Bádhiya Sutta: Lúc ấy, Đức Phật rời khỏi tỉnh xá Kỳ Viên (Jetavana) đi trì bệnh khất thực tại Xá Vệ (Sāvatthi) thì có một vị Bà La Môn đã giá, tên là Bádhiya Dāraciriva, đi tìm kiếm Đức Thế Tôn để hỏi pháp. Khi ấy, Đức Phật đang ôm bát đi vào giữa các xóm nhà thì Bádhiya Dāraciriva đến gần bên, cúi đầu xuống chân ngài cầu pháp.
Đức Phật dạy pháp cho Bádhiya tại ngôi làng Xá Vệ trong một buổi sáng thanh tịnh
Đức Phật đã từ chối lần thứ hai, lần thứ ba, viện cớ đang trì bệnh khất thực nhưng sau đó, ngài đã thuyết ngắn gọn tinh yếu của giáo lý thoát khổ như sau: “Vậy nay Bádhiya! Ông cần phải học tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thơm tương, sẽ chỉ là cái thơm tương. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri.
Như vậy, nay Bádhiya! Nếu trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thơm tương, sẽ chỉ là cái thơm tương; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri – thì không có ông ở trong ấy, ông không là chủ ấy. Do vậy, nay Bádhiya! Ông không là đời này, ông không là đời sau, ông không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.” Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bádhiya Dāruciriva được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Sự Kiện Sau Khi Nghe Pháp
Dĩ nhiên, sau khi thuyết pháp cho Bádhiya, Đức Phật bước đi và tại bước vừa bước, ngài đã báo các đệ tử của mình chuẩn bị trở lại để an táng cho Dāruciriva vì ông ta ngay sau khi được nghe Pháp mà giác ngộ thì bị một con bò điên hục chết. Đức Thế Tôn đã biết trước là Dāruciriva phải bước qua cửa tử để thoát ra ngoài vòng luân hồi. Cho nên khi ông ta ra đường gặp Phật cầu Pháp, Đức Thế Tôn tại chối 3 lần cho đến khi ông ta cầu khẩn vì đời vô thường, sống chết khôn lường không biết mình lần Phật có còn sống đến ngày mai để được nghe pháp lần truyền pháp cho nên nhất tâm phải cầu Pháp ngay lúc gặp Phật.
Cái chết của Dāruciriva đúng với linh tính lần ý nguyện của ông ta khi cầu khẩn 3 lần xin Phật cho Pháp vì sợ rằng cả Phật lần ông ta có thể tích diệt không biết lúc nào để có dịp khác được cho pháp và nhận pháp. Có thể Dāruciriva đã tội sợ hay đôi khi ra ngõ gặp Phật cũng không phải hoàn toàn may mắn, được phúc thọ như chúng ta mong ước?
Giác Ngộ Trước Giây Phút Cuối Cùng
Tôi xin mạo muội vọng ngôn diễn giải thêm, Đức Phật còn có ẩn ý: “Trong cái thở mạng tương, sẽ chỉ là cái thở mạng tương” thì khi ông bị bò “bằng” (húc) không có ông sợ trong ấy, ông không trụ chủ ấy. Ông không chết đời này, ông không chết đời sau, ông không chết đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau sau khi bị bò điên “chết” chết. Con bò vì điên “trong cái thở húc tương, sẽ chỉ là cái thở húc” vì khi nó húc không có nó ở trong ấy, nó không là chủ ấy. Nó không húc chết ai đời này, nó không húc chết ai đời sau, nó không húc chết ai chặng giữa. Nó chỉ là phương tiện như con bè đưa ông ta qua bờ tử, tới bến giải thoát, đoạn tận khổ đau.
Không có người bị húc, kẻ húc; không có kẻ giết, người bị giết. Nó không còn có tính chất nội tại nữa, mà có thể thay đổi bởi tương giác giữa chủ thể và vật thể. Tất cả chẳng qua cũng vì nghiệp quả và nhân duyên, đến đi, xảy ra như thị tri kiến vậy thôi. Ngược lại, ông không sống đời này, ông không sống đời sau, ông không sống đời chặng giữa cho nên những điều trên trong cái thở mạng tương, sẽ không có cái thở mạng tương vì ông không bị bò “bằng” không có ông sợ sống trong ấy, ông không sống trụ chủ ấy.
Thuyết pháp về không-tự của Đức Phật giúp Bádhiya đạt giác ngộ trong giây phút cuối cùng
Trung Đạo Và Bốn Điều Tuyệt Đối
Nói theo lập trường Đề Ngoại Đế của Bồ Tát Long Thượu thì: Chủ quan, khách quan, quan hệ, nhận thức, tất cả đều chỉ là “không” mà thôi. Lập trường của chính Long Thượu quyết không nhất định ở thuyết không. Chính cái không cũng là không rồi, vậy thì lại trở về cái thế giới vũ trụ giả danh (Prajnapti) để điều hòa hữu hóa nó. Trong Trung Luận đã có một bài tụng nói rõ ý ấy, “Các pháp do nhân duyên sinh, tôi nói: Đó là không, cũng gọi là giả danh, mà cũng là nghĩa “Trung Đạo.” Nghĩa là giữa khoảng KHÔNG và HỮU triển khai một thế giới thực tương Trung Đạo.
Một bài tụng trong Trung Luận để thuyết minh cái “không đi” trong thuyết Bất Bất ở trên: “Đi rồi, không có đi. Chưa đi, cũng không có cái đi. Ngoài cái đi rồi và chưa đi. Thì khi đi cũng không có cái đi!”
Tôi xin phóng tác lại để cho hợp với chủ đề trên: “Chết rồi, không có chết. Chưa chết, cũng không có cái chết. Ngoài cái chết rồi và chưa chết. Thì khi chết cũng không có cái chết!” “Sống rồi, không có sống. Chưa sống, cũng không có cái sống. Ngoài cái sống rồi và chưa sống. Thì khi sống cũng không có cái sống!” “Đau khổ rồi, không có khổ đau nữa. Còn chưa đau khổ, không có biết khổ đau. Ngoài cái đau khổ rồi và chưa khổ đau thì khi đau khổ cũng như chưa khổ đau vậy!”
Không có bản ngã của người, ta và vật ở trong ấy, không có vật thể lẫn chủ thể, khi một cảm thụ đau khổ thì chỉ là một cảm thụ đau khổ chỉ khác không có cái gọi là “tôi đau khổ” ở trong đó. Nếu có người hỏi tôi: Anh có đau khổ không? Tôi sẽ trả lời: Cơ thể ngũ uẩn của tôi cảm thấy khổ đau. Thay vì trả lời: Tôi “có” (to have) đau khổ. Tương tự: Are you suffering? My body is. Trong phim Ma Trận (Matrix) Hollywood và người Mỹ đã biết nguyên lý này từ lâu.
Giác Ngộ Vô Tự Trong Lối Sống Hiện Đại
Cho nên, trong thời đại văn minh điện tử này không còn nhiều cách biệt giữa ý tưởng của Đông lẫn Tây. Không còn phân biệt Đông Tây Nam Bắc trên quan niệm sống như hồi xưa nữa. Trở lại vấn đề trên, nếu trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thơm tương, sẽ chỉ là cái thơm tương; trong cái tri thức, sẽ chỉ là cái thức tri – thì không có Ta (Ngã) ở trong ấy, Ta không là chủ ấy.
Không có bản ngã thực tại của Ta ở trong ấy để mà Tôi thấy, Tôi nghe, Tôi thơm, Tôi xúc, Tôi thức mà nhục thể của Tôi tưởng như là Tôi thấy thực, tưởng như là Tôi nghe thực, tưởng như là Tôi thơm thực, tưởng như là Tôi xúc thực, tưởng như là Tôi thức thực. Nên ta phải nhận thức rằng: Khi cảm thụ đau khổ xảy ra, đó chỉ là cảm thụ, không phải “tôi” đang đau khổ. Sự hiểu biết sâu sắc này là chìa khóa để tâm được giải thoát.
Hành thiền quán vô thường, vô tự để tìm ra giải thoát từ vòng luân hồi
Tứ Điều Tuyệt Đối Và Học Thuyết Trung Quán
Dùng Tứ Từ Đoạn Luận: Tất cả đều thật tại; không thật tại; cả hai thật tại và cả không thật tại; không phải không thật tại cũng không phải thật tại. Câu luận giải dưới đây nêu lên bản chất của một hiện tượng bằng cách dựa vào phép Tứ đoạn luận đã nói lên một sự quán thấy không nhất thiết biệt đã hay thiên vị sơ trụ và vào một nơi chọn nào cả (Trung Quán) – tức là vượt lên trên cả hai vị thế đối nghịch nhị nguyên.
Trung Quán Luận Tương của Long Thượu khá khúc chiết vì có đường, không phải dễ hiểu và nhất là dễ dịch thuật ra những ngôn ngữ khác. Trong Tập Trung Quán Luận Tương (Madhyamaka-karikas) là tập luận giải chủ yếu và độc đáo nhất của Long Thượu. Trong tập luận này, có một câu (tiết 15.8) có thể xem là tiêu biểu nhất phản ánh học thuyết Trung Quán được Học Giả và Triết Gia Phật Giáo Guy Bugault dịch: “Tất cả là tốt giống như rửa, không phải giống như rửa. Có lần giống như rửa và không giống như rửa. Không phải như ri cũng không phải như rửa. Đó là thuyết tuần tự nhi tiến của Phật.”
Câu tiết 15.8 trên của Tập Trung Quán Luận Tương được Guy Bugault dịch sang tiếng Pháp khá vấn đề và triết lý tuy nhiên câu dịch dưới đây của Thiền Sư và Triết Gia Phật Giáo Stephen Batchelor dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Anh đơn giản và dễ hiểu hơn: “Everything is real, not real; both real and not real; neither not real not real: this is the teaching of the Buddha.”
Tôi xin dịch sát nghĩa như sau: Tất cả đều thật; không thật; cả hai thật và cả không thật; không phải không thật cũng không phải thật: Đây là lời dạy của Phật. Hay, tất cả đều thật; đều là lão; cả hai thật và lão cả hai; không phải lão cũng không phải thật: Đây là lời dạy kỳ cực của Phật.
Kết Luận: Hành Đạo Vô Tự Và Giác Ngộ
Giống như dòng tâm thức không đến không đi trong Phật giáo, thuyết tương đối nói rằng sự trôi của thời gian, với một quá khứ đã qua và một tương lai còn chưa tới, chỉ là ảo giác, vì tương lai, quá khứ và hiện tại tất cả phụ thuộc vào chuyển động tương đối của ý thức. Thời gian không trôi, nó đơn giản chỉ tồn tại, cô đọng, và cuốn lại ở đó mà thôi.
Giác ngộ được thực tại như vậy thì sẽ đoạn tận khổ đau. Vậy nay Ngã! Ta cần phải học tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thơm tương, sẽ chỉ là cái thơm tương. Trong cái xúc giác, sẽ chỉ là cái xúc giác. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Không có bản ngã thực tại của Ta ở trong ấy để mà Tôi thấy, Tôi nghe, Tôi thơm, Tôi xúc, Tôi thức.
Khi hiểu rõ rằng không có một “tôi” thực tại nào để trải nghiệm mà chỉ có các hiện tượng cảm thụ xảy ra theo nhân duyên, thì chúng ta bước vào con đường thoát khỏi vòng luân hồi. Lời dạy của Đức Phật dành cho Bádhiya và cung cấp cho chúng ta một chìa khóa quý báu: hành thiền quán vô tự là con đường tối thiểu để đạt được giác ngộ và giải thoát từ khổ đau của luân hồi sinh tử.