Một trong những tên tuổi ấy chính là vua Trần Nhân Tông. Người có thể được xem là một anh hùng dân tộc, một nhà tư tưởng lớn, một nhà ngoại giao, một nhà chính trị, hoặc một nhà văn hóa. Nhưng vượt lên trên tất cả, Ngài là một người tu Phật chân chính.
Phật giáo thời Trần được xem là đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử Phật giáo trung đại Việt Nam, được đóng góp bởi nhiều tên tuổi xuất thân từ hoàng gia. Một trong những tên tuổi ấy chính là vua Trần Nhân Tông. Ngài có thể được xem là một anh hùng dân tộc, một nhà tư tưởng lớn, một nhà ngoại giao, một nhà chính trị, hoặc một nhà văn hóa. Nhưng vượt lên trên tất cả, Ngài là một người tu Phật chân chính. Bài viết này khắc họa lại một vài nét nổi bật ở Ngài, một người tu Phật, để từ đó lộ toát lên tấm lòng từ bi của Ngài dành cho con người. Qua đó, người tu Phật ngày nay có thể noi theo trên bước đường tu học của mình.
Trúc Lâm Đại Đẫu Đế: Một tấm gương sáng người cho hậu thế 1
Vị Vua Anh Hùng
Theo tác phẩm Tam Tổ Trúc Lâm, vua Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ngay từ nhỏ, Ngài đã hâm mộ Đạo Phật. Năm 16 tuổi, Ngài được lập làm thái tử nhưng lại cố khước từ để nhường lại cho em, vì tâm nguyện của Ngài là xuất gia tu hành. Vua cha là Trần Thái Tôn cười về cho Ngài. Tuy sống trong cảnh hạnh phúc, nhưng tâm Ngài vẫn thích đi tu. Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm thấy và bắt Ngài quay trở về. Năm 21 tuổi (năm 1279), Ngài lên ngôi Hoàng Đế.
Tuy ở địa vị cao nhưng Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập. Ngài thường ăn chay lặt nên thân thể gầy ốm. Vua cha Thái Tôn thấy thế lấy làm lo, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha. Vua cha khóc báo: “Nay ta đã già, chỉ trông cây một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?”. Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt.
Con người Ngài rất thông minh hiểu học, độc hết các sách về, thông suốt cả nội điển và ngoài điển. Những khi nhàn rỗi, Ngài thường mời các Thiền khách bàn giải về thiền, tham học thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, thâm đắc được đến chủ thiền tùy. Khi Giáo Nguyên sang xâm lược Đại Việt, Ngài đã hai lần lãnh đạo quân dân đã đánh đuổi được, giữ gìn trọng vận đất nước. Năm 1293, Ngài nhượng ngôi lại cho con là Trần Anh Tôn và lên làm Thái thượng hoàng đế để chỉ dạy cho con cách điều hành đất nước. Đến năm 1299, Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ngài cũng chính là người đã khai sáng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử trên cơ sở dung hợp ba dòng Thiền đã có mặt trên đất nước Đại Việt: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường.
Vị Phật Tử Thuần Thành
Trong suốt thời gian ở trên ngôi hoàng đế, Ngài có những dấu ấn làm nên tên tuổi một Trần Nhân Tông không thể lầm lẫn với ai khác. Việc lãnh đạo quân dân hai lần đánh tan quân Nguyên hung mạnh thời đó là một thành tích không nhỏ, nhưng chiến thắng chính bản thân là một kỳ tích. Vậy Ngài chiến thắng bản thân bằng cách nào? Đó chính là tu tập để giác ngộ bản tâm ngay giữa cuộc sống thế tục đầy dục lạc.
Có lần Ngài thưa hỏi thầy của mình là Tuệ Trung Thượng Sĩ về “Bốn phần tổng chỉ”, Thượng Sĩ đáp: “Phần quan tự kỳ bốn phần sự, bất tùng tha đắc”; ngay đó Ngài đã thông suốt được đường vào. Việc ngộ bản tâm của Ngài cũng đã được Tuệ Trung Thượng Sĩ ấn chứng trước thời điểm diễn ra cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ ba.
Một vị vua là Phật tử thuần thành như thế, nên có những việc làm rất nhân văn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi quân Nguyên xâm lược, một số quan lại vương hậu đến doanh trại giáo đã biểu xin hàng. Khi giáo thua, triều đình bắt được cả một hôm biểu và vua Trần Nhân Tông sai đốt hết để yên lòng những kẻ phản trắc. Cũng theo bộ sử trên, “Vua tùng ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hễ gặp gia đoàn của vương hậu thì tất gọi chúng mà hỏi: ‘Chủ mẫy đâu?’, rồi răn các vệ sĩ không được thẹt đuổi. Đến khi về cung, báo tả hậu ráng: ‘Ngày thường thì có thể về tả hậu, khi quốc gia lâm hoạn nạn thì chỉ có bốn chúng có mặt'”. Có thể có ý kiến cho rằng vua làm như thế để lấy lòng thiện hạ. Nhưng không, đó chính là việc làm lưu xuất từ bản tâm thanh tịnh. Tâm ấy không có yêu ghét, oán thù và phân biệt sang hơn.
Trúc Lâm Đại Đẫu Đế: Một tấm gương sáng người cho hậu thế 2
Việc Ngài lãnh đạo quân dân hai lần đánh tan quân Nguyên hung mạnh thời đó là một thành tích không nhỏ, nhưng chiến thắng chính bản thân là một kỳ tích. Việc ngộ bản tâm của Ngài đã được thầy của mình ấn chứng.
Bài Cơ trần lạc Đạo phủ được vua sáng tác khi chưa xuất gia, là một tác phẩm đã thể hiện đầy đủ sự giác ngộ và tấm lòng từ bi bao la của Ngài. Có thể xem tác phẩm là bài học cho hậu thế trên bước đường tu học Phật và sau đây chỉ là một vài điểm cơ bản được khái quát.
Mình ngồi thành tịnh,
Nắt dương sơn lâm.
Muốn nghiệp lặng an nhân thể tính,
Nửa ngày rồi từ tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ chấu yêu ngược quỷ;
Thị phi tiếng lặng, được dâu nghe yên thót oanh ngâm.
Đoạn lục căn nên trở lục tắc.
Hỏi pháp chân không, hề chi là lánh ngại thanh chấp sắc.
Biết chân như, tin Bát nhã, chủ còn tìm Phật, Tổ Tây Đông;
Với Ngài, giữa cuộc sống thường nhật của một vị quân vương bận bịu công việc triều chính, vẫn có thể tu được, chỉ cần buông bỏ dục lạc thế gian, không để các căn dính mắc các trận là sống được với bản tâm. Người tu Phật phải luôn hướng sống với tính biệt của mình, đó là Phật tính. Phật ngay tại tâm, soi lại tâm mình để tìm Phật, chủ không phải tìm từ nơi bên ngoài.
Bụt ở trong nhà;
Chẳng phải tìm xa.
Pháp hành của vua đâu khác những gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết trong kinh điển nguyên thủy. Nếu khảo sát Kinh Trung bộ, cũng có thể nhận thấy Ngài đã rất nhiều lần dạy các đệ tử của mình phải phòng hộ các căn (xem Kinh Không Nhiễm Uế [số 5], Đại Kinh Đoạn Tân Ái [số 38], Kinh Hữu Học [số 53],…). Đặc biệt, trong Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp, Ngài đã đề cập đến tính biệt: “Ở đây, này Ananda, các cảm thọ khởi lên nơi Thế Tôn được biết đến; được biết đến, chúng an trụ; được biết đến, chúng đi đến biển hoại; các tưởng được biết đến; các tâm khởi lên được biết đến; được biết đến, chúng an trụ; được biết đến, chúng đi đến biển hoại”. Có lẽ vua Trần Nhân Tông đã kế thừa từ tưởng Thiền Đông Ngộ ở Tuệ Trung Thượng Sĩ và cả tưởng tiềm tu ở vua Trần Thái Tôn, nên với Ngài, người tu Phật ngoài việc giữ giới cũng phải căn gắn gúi bác thiện tri thức, tham thiền, học tập kinh điển.
Xem Tam Tạng giáo, ắt học Đòi Thiền uyên thanh quy.
Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiến Đian chiếm báng.
Tích nhân nghị, tu Đạo đức, ai hay nay chẳng Thích Ca.
Cảm giới hạ hành, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.
Tham thiền kên bạn, nát thân mình mới khá hội Ân;
Học Đạo thời thấy, dụt xương óc chưa thông của bảo.
Người tu Phật cũng cần phải phước huệ song tu.
Dụng cầu Đó, giới chiến thập, ngoài trang nghiêm sự tưởng hãy tu;
Cường hệ xáy, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hăng đắc.
Người tu Phật phải biết sống tri túc.
Ải miền chân đầm âm qua mưa, hoặc chầm hoặc xả;
Cơm cứng chào đối no đòi bữa, dâu bạc dâu thoa.
Một khi người tu Phật đạt Đạo, cần phải phát hạ hạnh nguyện độ chúng sinh. “Sạch giới lòng, chùi giới tưởng, nội ngoài nên Bồ tát trang nghiêm.”
Đại Việt sử ký toàn thư cũng đã ghi chép lại câu chuyện vua tiếp ngài Đạo Tái trước khi xuất gia trong một bữa tiệc với những món ăn không phải là thức ăn chay. Vua vẫn ngồi chung bàn với Đạo Tái, nhưng không ăn và lại có mấy vần thơ như sau:
Quy cước bóc đó ưởt,
Mã yên nương vàng thơm,
Sơn tằng giữ trai giới,
Cùng ngồi chẳng cùng ăn.
Chưa xuất gia mà vua đã xem mình như một “Sơn Tằng”, giữ giới rất nghiêm cẩn. Người xưa tu Phật là như thế. Năm 1299, Ngài xuất gia tu hành ở núi Yên Tử. Đây là một việc làm đi ngược lại với quan niệm thế gian. Trong mắt thiên hạ, Ngài là một anh hùng, lẽ ra phải được thụ hưởng sau khi đất nước thanh bình. Nhưng dưới cái nhìn của một người đã giác ngộ như Ngài, những thứ vinh hoa phú quý đều là hư huyễn. Vì vậy, Giáo sư Minh Chi, một trong những nhà nghiên cứu Phật học hàng đầu Việt Nam, mới nhận định vua Trần Nhân Tông là siêu viết, vượt trên thế tục.
Trúc Lâm Đại Đẫu Đế: Một tấm gương sáng người cho hậu thế 3
Cuộc đời của Sư tổ Trúc Lâm là một bài học vô cùng giá trị cho Phật tử ở mọi tầng lớp xã hội.
Ngoài việc thành lập nên một thiền phái mang bản sắc Việt, việc xuất gia của vua còn là bài học quý báu cho người tu Phật. Những gì Ngài đã nêu ra trong Cơ trần lạc Đạo phủ đều tương ứng với những việc làm của Ngài dưới lớp áo tu sĩ. Ngài tu hành Đầu Đề nên có hiệu là Hương Vân Đại Đẫu Đế. Năm Giáp Thìn (1304), Ngài đi khắp trong dân để dạy hộ tu thập thiền và phá bỏ những dâm tự không chính đáng; cũng trong năm này, Ngài về kinh Đô theo lời thỉnh cầu của vua Anh Tôn để truyền giới Bồ tát cho vua và quan lại trong triều. Trước đó vào năm 1303, tại phủ Thiên Trường, Ngài cũng đã tự chức chấn cấp cho dân nghèo trong nước cùng với việc giảng kinh và truyền giới. Thương chúng sinh là thương tấn cũng như thế. Đó là tính thương của một người đã sáng được bản tâm. Ngoài ra, Ngài cũng tiếp chứng Độ Tăng không ngừng nghỉ và Thiền Tông Bản Hánh đã có ghi lại công hạnh này như sau:
Lại thốt sự Tổ nhân duyên,
Đầu Đế vãng lai giáo kinh quyền bốn phương.
Thì vừa khai tuyên Phật trường,
Linh Sơn cảnh giới thiền Đường mỗi nơi.
Quả thật, Sư tổ Trúc Lâm đã làm trọn vẹn hạnh nguyện của một người tu Phật: Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sinh.
Kết Luận
Tóm lại, cuộc đời của Sư tổ Trúc Lâm là một bài học vô cùng giá trị cho Phật tử ở mọi tầng lớp xã hội, ở mọi tầng lớp xã hội, kể hàng xuất gia và tại gia. Những việc làm của Ngài dù khi còn sống tại gia hay xuất gia cũng đều là những việc làm xuất phát từ lòng từ bao la. Thế thì, người tu Phật thời nay cũng cần phải lấy đó là gương để thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sinh như bậc tiên nhân đã làm.