Đạo Phật là con đường dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau, luân hồi. Những người con của Đấng Tự Phát có mặt để tô tháp cho cuộc đời thêm sắc màu tươi sáng, để người người rơi rạ niềm vui trong an lành, bình yên. Trong đó, Bồ-tát—những ngôn sứ của lòng từ bi—vào đời bằng hành trang đong đầy yêu thương và hiểu biết của tâm tự bi cùng trí tuệ sáng suốt. Những hành trang đó phải đâu tự nhiên Bồ-tát có được, mà trên hết là một nề lực tu dưỡng, rèn luyện huân tập trong muôn ngàn tế hạ hành cử của cuộc sống thường ngày, trong vô vàn ưu tư cho hướng đi về tuệ giác vô thượng mà Đức Phật đã ân cần truyền trao cho tất cả chúng sanh. Bồ-tát vào đời với bốn pháp nhiếp phục tâm người, hầu đưa người vào đạo. Đó chính là Từ Nhiếp Pháp.
Khái Niệm Từ Nhiếp Pháp
Đức Phật dạy như sau về Từ Nhiếp Pháp:
“Này các Tỳ-kheo, có bốn nhiếp này. Thế nào là bốn? Bộ thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Này các Tỳ-kheo, có bốn nhiếp pháp này”[1].
Bồ-tát chia sẻ với tâm từ bi, đem yêu thương đến cho người khó khăn
Từ Nhiếp Pháp hay còn gọi là Từ Nhiếp Sự, Từ Sự Nhiếp Pháp, Từ Tập Vật, hay gọi đơn giản là Từ Nhiếp, Từ Sự, Từ Pháp, gồm bốn pháp cao quý là:
Bộ thí: Bồ-tát chia sẻ cho người những gì người cần về vật chất lẫn tinh thần. Bộ thí trong nhà Phật bao gồm: Tài thí, Pháp thí, và Vô úy thí.
Ái ngữ: Bồ-tát chan hòa với người bằng ý hướng thiện lành, bằng lời nói nhẹ nhàng, tận tâm chân thành, đầy tình thương.
Lợi hành: Bồ-tát đem lại lợi lạc thực tế, giúp ích cho người qua những việc làm của thân, khẩu, ý.
Đồng sự: Để thực hiện được mục đích giúp người, cứu đời, Bồ-tát luôn đặt mình vào tình huống, hoàn cảnh của tha nhân để hiểu được người và yêu thương người nhiều hơn. Từ đó, sự san sẻ của Bồ-tát dành cho người sẽ đong đầy ý nghĩa hơn.
Vai Trò Của Từ Nhiếp Pháp Trong Hành Tu Tập
Bộ thí là tất cả niềm vui của tự thân. Bồ-tát khi bộ thí như thế, trao cho như thế, là tất cả niềm vui của tự thân. Bộ thí không chỉ đơn giản là cho đi, mà với nghĩa cụ thể là san sẻ tình thương đó, Bồ-tát mong đưa người về ánh sáng của đạo. Bộ thí phải luôn luôn đi với bi tâm mới là sự bộ thí của Bồ-tát. Bộ thí thiếu vắng yếu tố bi tâm, thì sự lệch lạc có thể xảy ra, hậu quả bất thiện có thể phát khởi một cách khó lường.
Khi bộ thí, Bồ-tát quan sát muôn người và thế giới chung quanh, để hiểu những nỗi khổ của người khác nhiều hơn, thông cảm với người khác nhiều hơn. Từ đó, lòng tự bi cũng được trưởng dưỡng, lan tỏa đến tâm thức mỗi người. Phương thức cho của Bồ-tát phải tháp đượm yêu thương, chân thành với người trong hoạn nạn, cơ nhàn.
Bồ-tát nhận ra mình và người đều có thể gặp khó khăn, nên luôn tôn trọng mỗi con người
Đã là thân phận một con người, một sinh linh, ai dám chắc bản thân sẽ vĩnh viễn sống mãi trong cảnh đầy đủ, dự thừa suốt cuộc đời giả tạm luôn thay đổi, biến chuyển nay. Cho nên, chính trong bộ thí, Bồ-tát chiêm nghiệm được cuộc đời, hiểu rõ hơn nữa thân phận mong manh, nhớ bé biết bao của con người, cũng như muôn loại vận hữu chung quanh. Sự mong manh, nhớ bé ấy trước mỗi bão tố, phong ba của thực tế cuộc sống phức tạp, muôn phiền, nhiều nhưng, vẫn luôn tồn tại, luôn hiện hữu đó đây, luôn biến chuyển như một dòng nước chảy không dừng.
Ái ngữ: Với hành nguyện Pháp thí cho người, Bồ-tát sẽ là người hoằng dương Chánh pháp cho đời một cách dễ dàng, với các hoạt động như: Tổ chức buổi giảng pháp tại tu viện, hay tại một đạo trường trang nghiêm với tất cả sự hiểu biết sâu sắc của bản thân để truyền trao cho người thật thỏa đáng, hữu ích. Như trong Kinh Duy-ma-cật, cư sĩ Duy-Ma-Cật, người đã làm vô lượng thiện lành giúp ích cho bao người, nay bằng phương tiện thiện xảo, ông hiện thân có bệnh và mỗi người đến viếng thăm ông, từ những vị Trưởng giả quyền quý cho đến giai cấp cùng đình, nhân đây, ông giảng pháp cho mỗi người.
Bằng khả năng thuyết pháp, Duy-ma-cật muốn mỗi người thâm nhập Phật pháp để hiểu đạo, tu đạo và hành đạo. Ông thuyết giảng một chân lý muốn đời là vận hữu, kể cả tâm pháp và sắc pháp, đều biến dịch thay đổi khó lường, tất cả là sự thể hiện của một quy luật vận hành vũ trụ, quy luật đó chi phối toàn bộ cuộc sống con người, cả về nhân sinh quan lẫn vũ trụ quan. Khi nào chúng ta còn tồn tại, thì chúng ta vẫn bị luật tắc ấy chi phối.
Bồ-tát giảng pháp để mọi người hiểu rõ hơn về Phật học và đạo lý
Đó chính là luật tắc Duyên khởi, một định luật khách quan. Nó tự vận hành theo quy tắc của chính nó, như quả Đất quay quanh mặt trời, mùa xuân hoa nở thấm tươi, đông về hoa lá rụng rơi đầy thơm. Không ai có quyền lực báo trái Đất ngừng quay, không ai có đủ uy lực sai khiến để đông về ngàn hoa vẫn tươi thấm, chim én vẫn lượn bay.
Vì như Bồ-tát biết rằng: “Xuân đi trăm hoa rụng, xuân đến trăm hoa cười” (Cao tăng thị chứng) chỉ là hiện tượng biến dịch, thường chủ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việc sống chết của con người mà lý vô thường luôn được hiện hữu một cách tự nhiên, thể hiện quy luật “Duyên khởi trong hiện tượng (trong Thành-trụ-hoại-không) của các Pháp”[2].
Bồ-tát hiểu vô thường là một sự thật miên viễn, một chân lý không bao giờ dịch chuyển, nhưng Bồ-tát vẫn luôn tâm niệm giữ vững thiệp nguyện của mình để sống đời hiện dạng, để hy sinh, phục vụ cho đời được trọn vẹn. Đối với Vô úy thí, Bồ-tát vững vàng trong ý chí, kiên định trong tâm tư, Bồ-tát bước những bước đi tự tại, an nhiên, không sợ hãi trước những ma lực viễn vông. Bồ-tát giúp người có được nội lực vô úy, khiến người vững chải trong niềm tin đạo, để trải nghiệm vào cuộc sống thế trần trong bình an và hạnh phúc.
Lợi hành: Với tất cả trải nghiệm ấy, Bồ-tát vào đời cần trọng trong từng lời nói, ý tư trong từng tế hạ hành cử nhỏ nhất để đem yêu thương đến cho tha nhân, làm lợi ích cho người qua nghiệp thân, khẩu, ý. Bồ-tát hiểu rằng: “Trên tất cả sự cứu giúp bằng lợi hành, là dẫn người ra khỏi đường ác, để không sa đọa vào cảnh khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nói cách khác, người ít tín tâm, ta khuyến khích tăng trưởng tín. Người hay phá giới, ta tìm phương tiện ngăn chặn không để người sa ngã. Người xan tham keo kiệt ta khuyến khích cho thấy ích lợi của thí xả”[3].
Đồng sự: Bồ-tát không dừng lại ở sự chia sẻ những gì mình có, mà luôn đặt mình vào hoàn cảnh người khác để cảm thông, thương yêu và trao tặng những gì có thể để cuộc sống tốt đẹp hơn. Muốn thế, Bồ-tát đặt mình vào hoàn cảnh người khác để hiểu và chia sẻ nhiều hơn. Khi muốn cứu người, muốn cho người niềm vui, Bồ-tát luôn tự xem mình như người đối diện để biết những yêu cầu cấp thiết của người đối diện.
Tâm Bồ-tát phải đủ độ lượng, đủ tự tâm để bao dung tất cả mức độ tâm thức từng người, trong muôn vàn tư tưởng và hành độ thực tiễn của cuộc sống. Đi vào đời với chí nguyện giúp đời, đem an lành đến cho mỗi người trong sự bình đẳng, không phân chia, không tính toán, không so đo, với tinh thần đồng cảm, thâm nhập hòa hợp trong thử thách nhẹ buông.
Như lời Đức Phật dạy: “A-nan, ông xem Như Lai, khi xưa tu hành lành nguyện, bộ thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; dùng căn lành này thẩu giữ chúng sinh không có phân biệt, đây là cha ta, đây là mẹ ta, anh em ta, chị em ta, bạn bè thân thích của ta. A-nan, ta đối với chúng sinh chỉ có một vị bình đẳng, tâm không phân biệt sai khác”[4].
Bồ-tát luôn lắng nghe và hiểu rõ nỗi lòng của người khác với trái tim từ bi
Lợi Lạc Nhân Sinh Khi Áp Dụng Từ Nhiếp Pháp
Tâm Bồ-tát luôn hướng đến cứu cánh Vô thượng Chánh Đạo Chánh giác trong mỗi tế hạ hành cử của Từ Nhiếp pháp. Cho nên nhất cử nhất động đồng sự đều thực thi trong chánh niệm, trong tỉnh thức cần trọng của Bồ-tát. Bồ-tát biết rằng dù không phải mỗi việc sẽ ẩm xuôi, nhưng qua tất cả, với sức mạnh của tâm nguyện và nội lực của Bồ-Đề tâm, Bồ-tát vẫn vượt qua mỗi chướng ngại và tiếp tục tiến lên phía trước.
Điều thành tựu ở đây là trong mỗi phương tiện thiện xảo để hoàn thiện mục đích hướng đến của Bồ-tát, tất cả hòa quyện, đan xen vào nhau một cách nhuần nhuyễn, nhịp nhàng đến diệu kỳ. Đó chính là sự dung thông với nhau của Từ Nhiếp pháp. Như qua bộ thí, Bồ-tát cũng phát triển mạnh mẽ lòng bi mẫn. Khi bộ thí để người nhận an lạc, niềm vui không bao giờ bị che khuất vì mặc cảm nghèo hèn, thì niềm vui được chia sẻ của Bồ-tát cũng giúp cho lời nói, âm thanh phát ra là những ái ngữ trao tặng cho người.
Và muốn có được ái ngữ đó, Bồ-tát sẽ đặt mình vào chế độ của người khác. Vì có hiểu mới có thương, như thế ái ngữ và đồng sự hòa quyện trong nhau để thành tựu nhiều lợi ích lợi hành cho tha nhân, đưa đến nhân cách tuyệt vời của Bồ-tát. Cho nên, bộ thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự ở trong nhau, tương thông, nương tựa nhau. Chúng tương tác, tương duyên, tương thuộc nhau mà thành tựu để đạt được tâm nguyện cao thượng của Bồ-tát, những người tâm nguyện sống vì người, vui theo niềm vui của người. Cho nên, khi thực hành một pháp là chúng ta thực hành cả bốn pháp.
Lịch sử Phật giáo cho thấy sự thành tựu quý giá của hành Bồ-tát với Từ Nhiếp pháp: “Trong các Đề tử tại gia hành bốn nhiếp sự để duy trì đoàn kết đại chúng, không phải duy chỉ Thủ Trưởng giả, mà những Đề tử tại gia nổi tiếng như Cấp Cô Độc (Đại và Tiểu), Úc-già, Chất-Đa, Pháp Dự, và Tì-xá-khư; bảy vị này đều được nói là thủ chúng một chúng họp đạo và duy trì sự đoàn kết bằng bốn nhiếp sự”[6].
Cho nên: “Bốn nhiếp pháp là Tịnh Độ của Bồ-tát. Khi Bồ-tát thành Phật, chúng sanh nào được tiếp thụ bộ giải thoát sẽ tái sinh vào Đó”[7].
Kết Luận
Qua tất cả, Bồ-tát thực nghiệm bốn pháp lành này. Trong đó, bộ thí không đơn giản chỉ là trao cho; ái ngữ, không thuần nhất là những lời nói dịu dàng đối diện tha nhân; lợi hành, không chỉ là những lợi lạc nhỏ nhặt qua thân, khẩu, ý; đồng sự, không phải ngăn ấy sự đặt mình vào tâm tư, tình huống của người khác để giúp đỡ người vượt qua những khó khăn cuộc đời, những bất trắc của tâm tư buồn thương. Trên tất cả, Từ Nhiếp pháp là cả một phương pháp khéo léo, phương tiện thiện xảo thu phục lòng người một cách năng động, hữu hiệu, đưa người về với đạo.
Thực tế, khi chúng ta gần gũi người, yêu thương người chân thật, hướng người theo cùng một hướng đi để quay về với chính pháp nhiệm màu, khi ấy, kết quả lợi lạc cho người sẽ hiện lộ và người sẽ song hành với chúng ta về hướng chân, thiện, mỹ của đạo. Như thế, chúng ta xây dựng được một Tịnh Độ nhân gian ngay trong kiếp sống này. Như mùa xuân ấm áp lại về, sau những ngày mùa đông rét mướt. Tịnh Độ là đây, cõi Phật là đây, chúng ta đang thực hiện báo đáp hồng ân của chỉ Phật và cùng nhau báo đáp hồng ân chỉ Phật trong muôn một, ngũ hậu là đó con xứng đáng của Đấng Tự Phát tôn kính muôn thuở.
Chú thích:
[1] HT. Thích Minh Châu (Việt dịch), Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, chương Bốn pháp, phẩm Vagga (22-28), Kinh Nhiếp Pháp (số 253, mục III).
[2] Đại Lã (2007), Thông tay vào chợ, NXB. Văn Hóa Sài Gòn, tr. 138.
[3] Tuệ Sỹ (2010) Bodhisattvabhūmi adhyāre yogasthāne daśamah śīlapāramitā, Du Già Bồ-tát giới, NXB. Phương Đông, tr.30.
[4] Sa Môn Thích Tịnh Hành, Đại Tập 49 – Bộ Niệt Bản III – Số 376 đến 396, Kinh Đại Bi – Quyển V – Phẩm 13: Trống Căn Lành, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn (Đài Loan), 2000, tr. 488.
[6] Tuệ Sỹ (2010), Sđd, tr.31.
[7] Sđd, Duy-Ma-Cật Sơ Thuyết, Tuệ Sỹ dịch, tr.79.