Image default
Luận Giải & Nghiên Cứu Phật Học

Vị A-la-hán Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Và Đại Thừa: Khác Biệt Và Liên Hệ

Trong hành trình tu tập Phật pháp, vị A-la-hán luôn là một chủ đề gây tò mò cho các Phật tử. Tại sao vị A-la-hán được xem là bậc thánh giác ngộ, nhưng lại có sự khác biệt giữa truyền thống Nam truyền (Phật giáo Nguyên thủy) và Bắc truyền (Phật giáo Đại thừa)? Thông qua nghiên cứu các kinh điển theo tầng Nikaya và các kinh điển Đại thừa Phật giáo, chúng ta có thể khái quát được quan niệm về quả vị A-la-hán trong hai truyền thống này. Mặc dù có những điểm khác biệt, cả hai đều xác tín về A-la-hán là bậc thánh giác ngộ, nhưng tầm nhìn cuối cùng lại hướng tới những con đường tu tập sâu rộng hơn.

Vị A-la-hán Trong Kinh Tạng Nguyên Thủy

Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Phật giáo phát triển và truyền thừa sang các nước lân cận phía Nam và phía Bắc, trong quá trình đó đã hình thành nên các bộ phái Phật giáo từ Thượng tọa bộ, Đại chúng bộ. Đến khoảng đầu Công nguyên, đã phát xuất từ tư tưởng Đại thừa Phật giáo. Triết lý tư tưởng của Đại thừa Phật giáo thể hiện rõ trong các bộ kinh như: Kinh Bát Nhã Ba-la-mật, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa. Quan niệm Phật giáo Đại thừa đề cập về thành quả A-la-hán là Thanh văn thừa, và đề cao lý tưởng Bồ tát thừa hướng đến quả vị Phật. Nền tảng căn bản của Đại thừa Phật giáo vẫn có mối liên hệ với Nguyên thủy Phật giáo về quá trình tu chứng, hình thành tư tưởng Đại thừa Phật giáo.

Theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy, vị A-la-hán (Arhant) là bậc đã hoàn toàn giác ngộ. Danh từ gọi vị ấy có ba nghĩa:

  1. Sát tặc: Giết giặc phiền não, tiêu diệt hoàn toàn những phiền não như tham, sân, si
  2. Ứng cúng: Xứng đáng được nhận sự cúng dường của trời và người
  3. Bất sinh: Mãi mãi vào Niết Bàn, không phải chịu quả báo lần thứ hai

Các bậc Bồ tát khi giáng sinh xuống cõi trần vẫn phải thiền định lại mới được quả A-la-hán. Bậc A-la-hán đã thoát khỏi phiền não, được tự do tự tại, hoàn mỹ về mặt đạo lý, làm chủ được tự tưởng của mình, biết hết tất cả [1]. Trong Tương Ưng Bộ Kinh còn ghi lại lời dạy của Đức Phật:

“Này Rădha, khi nào Tỳ kheo sau khi như thật biết rõ táp khởi, sự đoạn diệt, vị ngayt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này; vị ấy được giải thoát, không có chấp thủ; như vậy, gọi Tỳ kheo là bậc A-la-hán. Đã đoạn tận các lậu hoặc, Đã thành tựu phạm hạnh, Đã làm những việc phải làm, Đã đặt gánh nặng xuống, Đã đạt được mục đích, Đã đoạn tận hữu kết sử, Đã giải thoát nhờ chính trí” [2].

Bậc A-la-hán đã vượt qua sinh tử, hoàn mỹ trên con đường Tứ Diệu ĐếBậc A-la-hán đã vượt qua sinh tử, hoàn mỹ trên con đường Tứ Diệu Đế

Trong Kinh Tương Ưng, Đức Tôn nhân nói như sau: “Này Rădha, các tỳ kheo, là bậc A-la-hán, Chính Đắc Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, các tỳ kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu. Này các tỳ kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A-la-hán, Chính Đắc Giác và bậc tỳ kheo được giải thoát nhờ trí tuệ” [3].

Như vậy, bài kinh Tương Ưng của Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy điểm khác biệt giữa Đức Phật và các đệ tử chứng quả vị thánh A-la-hán. Đó cũng là yếu tố, cái nhân của sự tu tập trải qua thời gian nhiều kiếp lâu xa mà có kết quả như vậy. Vì chúng ta là phàm phu, hay nhị thừa, hoặc Bồ tát, thì cũng chỉ chứng được quả mà chúng ta đã có từ đời trước. Từ quả vị A-la-hán mà tiến tu lên được quả vị cao hơn nữa có thể được, nhưng cũng không đơn giản. Người may mắn gặp được Phật, thì sự tu chứng nhanh hơn; chỉ trong một niệm tâm liên chứng được quả A-la-hán, như Ngài Xá-lợi-phất [4].

Sự Phân Biệt Giữa Nam Truyền Và Bắc Truyền

Truyền thống Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền có một số điểm nhìn khác nhau về Thánh Tôn. Chính điểm nhìn khác nhau này mở lối cho sự phát triển của Phật giáo về sau và làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Phật giáo [5]. Phật giáo Nguyên thủy, Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ ghi nhận rằng, Thánh Tôn và các Thánh đệ tử A-la-hán đều giải thoát khỏi sinh tử, nhưng vẫn còn một số điểm phân biệt giữa Ngài và các Thánh đệ tử ấy.

Ngài là Giáo chủ duy nhất trong hiện kiếp, là một Thánh Tôn duy nhất trong hiện kiếp, còn các đệ tử của Ngài chỉ có thể chứng A-la-hán, thực hiện con đường giải thoát [6].

Quan Niệm Về Tam Thừa Trong Phật Giáo Đại Thừa

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nền Tảng Của Tam Thừa

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Các bản dịch của kinh từ ngôn ngữ Sanskrit sang ngôn ngữ Trung Hoa. Trong phẩm Phương tiện thứ hai có nhắc đến nhất thừa tức quả vị Phật, Đức Phật dạy rằng: “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cũng Duyên giác không thể đến được” [7].

Trong một nghìn hai trăm vị A-la-hán cũng rất đông người khác, khi nghe Đức Phật thuyết có khoảng năm nghìn người đứng dậy lễ Phật lui ra. Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Trong chúng ta đây không còn ca lâu, rất có hết chắc. Xá Lợi Phất! Những gã tưởng thường mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe ta sẽ vì ông mà nói” [8].

Đức Phật muốn chỉ Phật thừa mà không phân biệt thêm thừa nào khác. Đức Phật dùng phương tiện diễn nói các pháp, cho chúng sanh chứng “nhất thiết chủng trí” được tri kiến của Phật.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giáo lý tam thừa dẫn dắt đến nhất thừaKinh Diệu Pháp Liên Hoa giáo lý tam thừa dẫn dắt đến nhất thừa

Đại thừa Phật giáo theo như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật phương tiện giới thiệu về Tam thừa tức Thanh văn thừa, Duyên giác thừa (Bích Chi Phật), Phật thừa và sau cùng chỉ cho Nhất thừa tức Phật thừa. Trong pháp này, Đức Phật phương tiện hình thành nói ba thừa là Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát thừa để chúng sanh từ Tam thừa tiến nhập vào Nhất thừa. Điều này mang ý nghĩa, Nhất thừa mới là chân thật, là mục đích tu tập trong Phật pháp; còn Tam thừa chỉ là phương tiện.

Thanh Văn Thừa – Bậc Nhân Pháp

Đại thừa Phật giáo xem A-la-hán là Thanh văn thừa. Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy A-la-hán là quả vị cao nhất trong bốn Thánh quả. Sau Thánh Tôn Niết Bàn khoảng hơn 100 năm, nhân vật Đại Thiên Đưa ra quan điểm 5 việc, trở thành nguyên nhân tranh luận của Tăng giới, từ đó dẫn đến sự phân phái trong Tăng đoàn (Thượng tọa và Đại chúng). Các bộ phái tiếp tục xem xét những vấn đề có liên quan đến A-la-hán [9].

Thuyết Nhất thiết hữu bộ chia A-la-hán thành hai dạng:

  1. Thời giải thoát A-la-hán (Samayavimutta-Arahant): Chỉ cho các vị A-la-hán có thời gian giải thoát
  2. Phi thời giải thoát A-la-hán (A Samayavimutta-Arahant): Chỉ cho các vị A-la-hán cũng có thời gian không được giải thoát [10]

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thí dụ thứ ba, có đoạn: “… Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng sanh nào bị trong có trí tánh, theo Đức Phật Thánh Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chống ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa” [11].

Theo ý của đoạn kinh trên, Thanh văn thừa về việc tu tập lo tự độ, chứng được quả vị Niết bàn. Phật giáo Đại thừa hình thành quan điểm Tam thừa, Ngũ thừa. Quả vị A-la-hán xếp vào hàng Thanh văn thừa trong Tam thừa hay Ngũ thừa, quả vị cao nhất là Phật thừa. Có nghĩa là về phương diện tu chứng, Thanh văn thừa không đồng cấp giới như Phật quả [12].

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có đoạn: “Phật, vì người cầu Đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-Diệu Đế thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hàng cầu quả Duyên giác, nói pháp Mười hai nhân duyên. Vì hàng Bồ tát nói sâu pháp Ba-la-mật làm cho chứng được quả vô thường chính đắc chính giác thành bậc nhất thiết chủng trí” [13].

Đức Phật đã vì hàng Thanh văn khuyến tu pháp Tứ Diệu Để để chứng ngộ, đặt đạt được quả vị Niết bàn A-la-hán, vì hàng Duyên giác khuyến tu tập quán chiếu Mười hai nhân duyên, giác ngộ giải thoát sanh tử luân hồi, vì hàng Bồ tát khuyến tu sâu Ba-la-mật, tự lợi lợi tha, cứu độ chúng sanh khổ, lợi ích chúng sanh, hướng đến thành tựu quả vị Phật.

Duyên Giác Thừa – Bậc Độc Giác

Quả vị Duyên giác, tức Bích Chi Phật (Pratyeka-Buddha) được dịch là Độc Giác, hay Duyên giác, tự tu tập giác ngộ không do Thầy. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có đoạn: “Nếu có chúng sanh nào theo Đức Thánh Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rõ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên giác thừa, như các người con kia vì cầu xe hậu mà ra khỏi nhà lửa” [14].

Duyên giác thừa, tu tập tự giác ngộ pháp duyên khởi, chứng quả vị Độc Giác. Không giống với A-la-hán (arahant), vị Phật Độc giác là vị chứng được được sự giải thoát mà không do vị Chính Đắc Chính giác chỉ dạy, cũng sau một chặng đường hành đạo dài, nhưng vị Phật Độc giác được mô tả là “không tham ái, tự riêng mà chứng được sự tỉnh thức đúng đắn” và là “những vị Đại tiên nhân đã chứng được được Niết bàn tối hậu”.

Vị trở thành vị Phật Độc giác nhờ cái nhìn sâu sắc (quán chiếu) về vô thường và sự điên đảo chấp thủ của sự dính mắc (chấp thủ). Điều này phát sinh từ việc nhìn thấy những hiện tượng như là lá khô héo rơi, cây xoài bị tán phá bởi những kẻ tham lam, chim tranh nhau miếng thịt [15].

Duyên giác thừa tự tu tập, giác ngộ vô thường qua cảnh vật tự nhiênDuyên giác thừa tự tu tập, giác ngộ vô thường qua cảnh vật tự nhiên

Bồ Tát Thừa – Con Đường Đại Nguyện

Bồ-tát (Bodhisatta, Bodhisattva): Phiên âm đầy đủ là Bồ-Đề-tát-Đỗa, còn gọi là Bồ-Đề-tát-Đỗa, Ma-ha-Đề-tát-Đỗa. Cổ dịch là Đại Đạo tâm chúng sinh, Đạo chúng sinh. Tân dịch là Đại giác hữu tính, Giác hữu tính. Nghĩa là người có đại tâm cầu đạo, nên gọi là Đạo tâm chúng sinh. Người cầu đạo, cầu đại giác gọi là Đạo chúng sinh, Đại giác hữu tính [16].

Bodhisatta (Bồ-tát) có nghĩa là một chúng sinh tha thiết đạt được sự giác ngộ. Liên hệ đến giáo lý Bồ tát, hệ tư tưởng ban sơ của Mahasanghika chủ trương chỉ có duy nhất một Bồ tát, đó là Gautama Siddhartha (Cù-Đàm Tất-Đạt-Đa). Theo quan điểm của Mahavastu, trong đời sống sau cùng qua hình ảnh Tất-Đạt-Đa (Siddhartha), Bồ tát tự sinh (self-born) mà không phải do cha mẹ sinh.

Bồ tát phải thành tựu sâu Ba-la-mật (paramita) mới chứng được Vô thường Chính Đắc Chính Giác (Sammasambuddha). Sáu Ba-la-mật:

  1. Bồ thí Ba-la-mật
  2. Trì giới Ba-la-mật
  3. Nhẫn nhục Ba-la-mật
  4. Tinh tấn Ba-la-mật
  5. Thiền định Ba-la-mật
  6. Trí tuệ Ba-la-mật

Ba-la-mật là từ dịch âm từ chữ Phạn là paramita, có nghĩa là đạo bỉ ngạn, độ thoát, được gọi là “sự hoàn thiện, hoàn hảo, trạng thái cao nhất.” Văn học Thượng tọa Bộ Pali đề cập 10 Ba-la-mật, trong khi văn học Sanskrit bộ phái Đại thừa chỉ đề cập 6 Ba-la-mật [17].

Bồ tát trong kinh điển Đại thừa đặc biệt chú trọng vai trò của trí tuệ Ba-la-mật như kinh Đại Bát-nhã-ba-la-mật-Đa giải thích: “Này Xá Lợi Phất! Các vị Bồ tát cần phải an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-Đa, lấy tâm vô trụ là phương tiện (để độ chúng sinh). Từ đó năng trụ sở trụ không còn” [18].

Bồ tát thành tựu trí tuệ Bát-nhã-ba-la-mật tức tâm không còn phân biệt, dính mắc vào các pháp, tháy rõ được tánh không của các pháp như trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba-la-mật, Đức Phật dạy Tu Bồ Địa như sau: “… Bồ tát theo đúng pháp, nên lấy tâm không chấp trụ mà làm việc bồ thí. Nghĩa là không nên trụ nơi hình sắc mà bồ thí, không nên trụ nơi âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp tưởng mà bồ thí. Tu Bồ Địa! Bồ tát nên bồ thí như vậy đó, không trụ nơi tưởng… ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” [19].

Phật giáo Đại thừa phát triển về giáo lý “vô ngã” và lý tưởng Bồ tát đó là hai công trình vĩ đại cho nhân loại, và phát triển Phật giáo. Bồ tát không phân biệt với các pháp, không chấp chặt, dính mắc một pháp nào, mà thực hiện lý tưởng của Bồ tát với nhiều hành nguyện để phục vụ, lợi ích cho chúng sanh. Điều này cho thấy Bồ tát là bậc tự giác giác tha, không chỉ nói đến quả vị cao nhưng còn nói đến tấm lòng từ bi vô lượng và trí tuệ siêu việt.

Thanh Văn Thừa Đi Đến Nhất Thừa

Đại thừa Phật giáo theo như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật phương tiện giới thiệu về Tam thừa sau cùng chỉ cho Nhất thừa tức Phật thừa. Trong phẩm, Thí dụ thứ ba, có đoạn: “… Khi đó Trưởng giả đều cho các con đường một thứ xe lớn, xe đó cao rộng, chứng dụn bằng các món báu, dùng trâu trắng kéo…”

Đến phẩm thứ tám “Ngũ bả Đệ tử thọ ký” thì năm nghìn Thanh văn mới giác ngộ, hiểu được lời Đức Phật dạy mà sám hối quay về lãnh lời thọ ký thành Phật của Đức Như Lai: “Chúng con nay mới biết mình thiết là Bồ tát được thọ ký sẽ thành Vô Thường Chính Đắc Chính Giác”.

Như vị như kẻ ngu vô trí tìm được chẩu báu vô giá của người bạn cho sẵn trong váy áo, mà do vì say nên không hay, nay chỉ cho chẩu được chút phần Niết bàn cho đủ không cầu nữa, nay từ Phật nghe thọ ký Phật huệ Vô thường đó mới là thiết diệt [20].

Qua đoạn kinh của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chúng ta thấy chủ yếu Đức Phật muốn nói đến quả vị Phật nên hướng đến. Đức Phật nhấn mạnh về phương tiện hành Bồ tát đạo lợi ích nhân sinh là nền tảng của việc tu tập.

Trong kinh luận Đại thừa như: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thí dụ và phẩm Tín giải giải thích hàng nhị thừa Thanh văn chỉ là phương tiện, Phật thừa mới là chân thật. Do vậy, Bồ tát cần phải từ bỏ Thanh văn và Duyên giác thừa để thành tựu Phật thừa.

Tam thừa trong kinh luận Đại thừa, như Kinh Kim Quang Tán Bát Nhã đề cập: “Thế gian liền biết có Thanh văn, Bích Chi, Phật thừa” [21].

Kinh Bất Thời Chuyên Pháp Luận và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thuộc Đại thừa có điểm tương đối ôn hòa đối với Thanh văn thừa và xem Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa là phương tiện từ

Related posts

Từ Bi Và Báo Lực: Sự Chuyển Hóa Thân Tâm Trong Phật Pháp

Administrator

Nhân Duyên May Mắn: Mở Kinh Địa Tạng Giải Nghiệp, Hóa Giải Oán Tích Nhiều Kiếp

Administrator

Hành Thiện Nhất Định Sẽ Gặp Thiện Báo

Administrator